XUẤT XỨ CỦA CHỮ "LẠC"


Tài liệu bằng văn bản quan trọng đầu tiên về chữ “lạc” trong danh từ “Lạc Việt” (Lo Yueh), cho đến ngày nay tìm thấy được, nằm trong đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký (sách của Trung Hoa) xuất hiện khoảng giữa đời Tấn (265-420), được nhiều sử sách trích dẫn, từ Thủy kinh chú (thế kỷ thứ 6) của Lịch Đạo Nguyên (Trung Hoa), đến An Nam chí lược (thế kỷ 13) của Lê Tắc (người Việt sống ở Trung Hoa), rồi các sách khác về sau nữa.

Lịch Đạo Nguyên, trong sách Thủy kinh chú, đã lặp lại theo Giao Châu ngoại vực ký như sau: “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ.” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.)(1)

Trong An Nam chí lược, Lê Tắc trích như sau: “Tại Giao Châu ngoại vực ký, tích vị hữu quận huyện thời, lạc điền tùy triều thủy thượng hạ, khẩn kỳ điền giả vi lạc dân, thống kỳ dân giả vi lạc vương, phó vương giả vi lạc tướng, giai đồng ấn thanh thọ...” (Giao Châu ngoại vực ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là lạc dân, người cai quản dân gọi là lạc vương, người phó là lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu...)(2)

Tuy hai cách hành văn khác nhau, nhưng ý chung của cả hai phần trích dẫn trên đây, trong hai sách khác nhau đều bắt đầu rằng ở cổ Việt có một loại ruộng gọi là “lạc điền”, người cày cấy “lạc điền” đề sinh sống là “Lạc dân”, rồi mới có “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng”.

Di chỉ rõ ràng nhất về nền văn minh Lạc Việt là trống đồng. Khi Mã Viện (Ma Yuan, 14 TCN - 49) đem quân sang cổ Việt đánh Hai Bà Trưng vào năm 41 (tân sửu), ông lấy được nhiều trống đồng ở cổ Việt, nhiều đến nỗi ông đã dùng các trống đồng đó để nấu chảy và đúc thành con ngựa, dâng lên vua của ông là Hán Quang Võ (Han Kuang-wu, trị vì 25 - 57). Sử sách Trung Hoa gọi trống đồng ở cổ Việt là “Lạc Việt đồng cổ” (trống đồng Lạc Việt).

Như vậy là sau “Lạc điền, Lạc dân, Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng” thì có thêm chữ “Lạc Việt đồng cổ”. Từ các tài liệu Trung Hoa trên đây, danh xưng Lạc Việt được dùng để chỉ chủng người sống trên đất cổ Việt, và là tổ tiên của người Việt chúng ta ngày nay.(3)

Trên mặt cũng như trên thân những trống đồng Lạc Việt, có rất nhiều hình ảnh, trong đó có hình chim. Không có một tài liệu nào của người xưa giải thích về các hình vẽ, hoặc những ẩn dụ trong các hình vẽ, khắc trên trống đồng. Các sử sách cổ cũng không giải thích hình chim trên trống đồng Lạc Việt là chim gì? Nói cách khác, những hình vẽ trên trống đồng Lạc Việt là hình “câm”. Các giải thích của những học giả đời sau chẳng qua là những lời phỏng đoán, những giả thuyết mà thôi, và không ai giải mã được đầy đủ ý nghĩa của những hình vẽ nầy.

Ngoài ra, hình vẽ trên các trống đồng Lạc Việt hoàn toàn không có màu sắc. Màu sắc các loại chim rất quan trọng vì có nhiều thứ chim có ngoại hình giống nhau, nếu không có màu sắc thì không làm sao phân biệt được. Ví dụ ở Ontario, Canada, có một loại chim gọi là chim sẻ Azores, ngoại hình và bộ lông hoàn toàn giống chim sẻ bình thường (có rất nhiều ở khắp nơi), chỉ trừ cái ức màu đỏ (khác với chim sẻ bình thường), và tiếng hót rất hay, trong khi chim sẻ bình thường không biết hót. Nếu du khách ghé thăm thác Niagara giữa Hoa Kỳ và Canada, ở phía bờ Canada, khi nghe tiếng chim hót rất hay, chú ý theo dõi trên các cành cây, sẽ thấy ngay loại chim nầy.

Ở Việt Nam không có chim Azores. Nếu đem một tấm hình đen trắng chụp chim Azores về Việt Nam, rồi kể rằng chim nầy hót rất hay, thì người trong nước sẽ không tin điều đó, vì họ nghĩ chim sẻ làm sao hót được? Vậy những con chim trên trống đồng Lạc Việt chẳng có màu sắc, làm cho việc phỏng đoán thêm khó khăn.

navigate to next page of article